ANEXATE thuốc gì? Công dụng và giá thuốc ANEXATE

Spread the love

Tracuuthuoctay chia sẻ bài viết  ANEXATE thuốc gì? Công dụng và giá thuốc ANEXATE? chỉ định, cách sử dụng, tác dụng phụ thuốc ANEXATE. Anexate được chỉ định để trung hòa tác dụng an thần của benzodiazépine trên hệ thần kinh trung ương. Trong khoa gây mê : Ngưng tác dụng gây mê toàn thân trong thời kz dẫn mê và duy trì mê bởi benzodiazépine ở bệnh nhân

ANEXATE Thuốc An Thần

HOFFMANN – LA ROCHE
Dung dịch tiêm tĩnh mạch và tiêm truyền tĩnh mạch 0,5 mg/5 ml : ống 5 ml, hộp 1 ống và 6 ống –
Bảng B.
THÀNH PHẦN

cho 1 ống
Flumazénil  0,5 mg

Giá thuốc ANEXATE: Bình luận cuối bài viết để được thông báo giá
DƯỢC LỰC
Thuốc đối kháng của benzodiazépine.
Flumazénil, imidazobenzodiazépine, là một thuốc đối kháng của benzodiaz pine : nó ngăn chặn
một cách chuyên biệt, do ức chế cạnh tranh, các tác dụng trên hệ thần kinh trung ương gây bởi
các chất có tác động trên cùng thụ thể của benzodiazépine.
Các kết quả thực nghiệm trên súc vật cho thấy rằng flumazénil không làm thay đổi các tác dụng
gây bởi các chất không có ái lực với thụ thể của benzodiazépine (chẳng hạn như barbiturate,
éthanol, méprobamate, các chất giống GABA và các chất chủ vận trên thụ thể của adénosine) ;
nhưng flumaz nil lại ngăn chặn tác dụng gây bởi các chất chủ vận không benzodiazépinique
trên các thụ thể của benzodiaz pine, như cyclopyrrolone (như zopiclone chẳng hạn) và các
triazolopyridazine. Flumaz nil tiêm tĩnh mạch trung hòa một cách nhanh chóng (trong 30-50
giây) các hiệu quả gây ngủ và an thần của benzodiazépine, và các hiệu quả này có thể xuất hiện
lại từ từ sau đó vài giờ, tùy theo thời gian bán hủy của thuốc và tương quan về liều giữa thuốc
chủ vận và thuốc đối kháng đã dùng.
Flumaz nil được dung nạp tốt, ngay cả khi dùng liều cao. Các nghiên cứu về độc tính được thực
hiện trên súc vật đã cho thấy rằng flumaz nil có độc tính thấp và không gây đột biến gène.

Flumazénil có thể gây tác động chủ vận nội tại nhẹ như chống co giật chẳng hạn. Ở súc vật được
cho dùng benzodiazépine liều cao trong nhiều tuần, flumaz nil đã phát động xuất hiện những
triệu chứng cai thuốc.
DƯỢC ĐỘNG HỌC
Khả năng ưa mỡ thấp, flumazénil có tỉ lệ gắn kết với protéine huyết tương khoảng 50%, trong
đó albumine chiếm tỉ lệ 2/3. Thời gian bán hủy đào thải trung bình của thuốc là 50-60 phút. Thể
tích phân phối trung bình khi đã đạt đến nồng độ ổn định (Vss = 0,95 l/kg) thì tương tự với của
benzodiazépine có cấu trúc tương tự ; điều này cho thấy thuốc được phân phối tốt đến các mô.
Flumaz nil được đào thải gần như hoàn toàn (99%) bằng đường ngoài thận. Người ta đã tìm
thấy acide carboxylique dưới dạng tự do và dưới dạng liên hợp như là chất chuyển hóa chính
trong nước tiểu người. Trong các test về dược lý, chất chuyển hóa chính tỏ ra không có hoạt
tính, đồng thời là chất chủ vận cũng như là chất chuyển hóa của benzodiazépine. Sự thanh thải
hoàn toàn trong huyết tương của flumazénil vào khoảng 1 lít/phút ; và có thể chủ yếu được gán
cho quá trình thanh thải ở gan. Tỉ lệ thanh thải yếu qua thận cho thấy thuốc được tái hấp thu
tốt sau quá trình lọc ở cầu thận. Nếu dùng đồng thời flumazénil và benzodiazépine, midazolam,
flunitrazépam hoặc lormétazépam, các thông số dược động học cơ bản của flumazénil không bị
biến đổi.
CHỈ ĐỊNH
Anexate được chỉ định để trung hòa tác dụng an thần của benzodiazépine trên hệ thần kinh
trung ương.
Trong khoa gây mê :
– Ngưng tác dụng gây mê toàn thân trong thời kz dẫn mê và duy trì mê bởi benzodiazépine ở
bệnh nhân ;
– Ngưng tác dụng an thần gây bởi benzodiazépine trong các phẫu thuật ngắn với mục đích chẩn
đoán hoặc điều trị cho bệnh nhân nhập viện hoặc điều trị ngoại trú ;
– Trung hòa các phản ứng ngược của benzodiazépine.
Trong khoa săn sóc đặc biệt :
– Chẩn đoán và (hoặc) điều trị quá liều benzodiazépine do cố ý hoặc do ngộ độc ;
– Chẩn đoán nguồn gốc của hôn mê không giải thích được để phân biệt đó là do benzodiaz pine
hay của một nguyên nhân khác (dược lý hoặc thần kinh) ;
– Hủy một cách chuyên biệt các tác dụng trên hệ thần kinh trung ương do quá liều
benzodiazépine (tái lập lại sự thông khí phổi tự phát nhằm tránh đặt nội khí quản hoặc để
ngưng dùng máy giúp thở).
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Flumazénil bị chống chỉ định ở bệnh nhân đã biết có dị ứng hoặc không dung nạp thuốc (hoặc
với các benzodiazépine).
CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG

– Flumazénil chỉ đối kháng với benzodiazépine, và không có hiệu lực nếu hôn mê gây bởi các
thuốc khác. Trong khoa gây mê, cũng cần lưu { rằng phải đảm bảo không còn tác dụng làm giãn
cơ trước khi tiêm Anexate.
– Thời gian tác động của thuốc thường ngắn so với của benzodiazépine, cần tiếp tục theo dõi
cho đến khi dự kiến là flumazénil mất tác động do có thể xảy trở lại sự ngủ gà.
– Ở bệnh nhân có nguy cơ cao, nên cân nhắc giữa lợi ích làm mất tác dụng của benzodiazépine
với nhược điểm là làm thức giấc nhanh.
– Ở bệnh nhân được điều trị lâu dài bằng benzodiazépine, tiêm nhanh với liều cao flumazénil
(trên 1 mg) có thể gây các triệu chứng cai thuốc và do đó cần phải tránh. Trường hợp có biểu
hiện không mong muốn của hội chứng cai thuốc, cần tiêm tĩnh mạch chậm benzodiazépine.
– Ở bệnh nhân được điều trị dài hạn bằng benzodiazépine hoặc quá liều do nhiều loại thuốc
(chủ yếu là các thuốc chống trầm cảm imipramine phối hợp với các benzodiazépine), tác dụng
đối kháng của flumazénil trên tác dụng của benzodiazépine có thể làm dễ dàng cho sự xuất hiện
các rối loạn thần kinh (co giật) và các rối loạn nhịp tim trên thất.
THẬN TRỌNG LÚC DÙNG
– Chẹn thần kinh cơ do tác động curare phải được trung hòa hoàn toàn trước khi dùng
flumazénil,
– Liều dùng của Anexate phải được đánh giá lại cẩn thận ở bệnh nhân được xem như bị tình
trạng lo âu trước phẫu thuật hoặc được xác nhận là có tiền sử bị chứng lo âu kinh niên hay
thoáng qua. Ở những bệnh nhân bị chứng lo âu này (nhất là các bệnh nhân bị bệnh mạch vành),
nên giữ lại một mức độ an thần trong thời kz hậu phẫu hơn là làm cho bệnh nhân tỉnh dậy hoàn
toàn.
– Cần lưu { đến cảm giác đau trong thời kz hậu phẫu. Do đó sau một phẫu thuật quan trọng,
nên duy trì bệnh nhân ở tình trạng an thần vừa phải.
– Khi điều trị những bệnh nhân đã dùng liều cao benzodiazépine trong thời gian dài, lợi ích của
việc dùng flumazénil phải được cân nhắc cẩn thận trước nguy cơ có thể phát động các triệu
chứng cai thuốc do benzodiazépine. Mặc dầu liều lượng đã được đánh giá một cách thận trọng
mà vẫn xảy ra các triệu chứng cai thuốc, có thể phải dùng trở lại benzodiazépine với liều thấp.
– Hiện nay, do kinh nghiệm điều trị còn thiếu, khi sử dụng Anexate cho trẻ em dưới 15 tuổi phải
lưu { đến độ trầm trọng của các nguy cơ có thể xảy ra (nhất là khi bị quá liều) và lợi ích điều trị
mong muốn.
– Không nên sử dụng các chất đối kháng ở bệnh nhân bị động kinh được điều trị lâu dài bằng
benzodiazépine.
– Ở bệnh nhân bị chấn thương sọ não nghiêm trọng (và/hoặc áp lực nội sọ không ổn định),
Anexate có thể làm tăng áp lực nội sọ.
Lái xe và vận hành máy móc : mặc dầu bệnh nhân đã được làm thức dậy và đã có { thức trở lại
sau khi tiêm tĩnh mạch Anexate, tuy nhiên cũng cần phải lưu { tránh làm những việc cần phải

tập trung cao, như lái xe và vận hành máy móc trong vòng 24 giờ sau khi dùng thuốc, vì tác
dụng của benzodiaz pine trước đó có thể xuất hiện trở lại.
TƯƠNG TÁC THUỐC
Flumaz nil ngăn chặn các tác dụng trên hệ thần kinh trung ương của benzodiazépine bằng cách
cạnh tranh ở các thụ thể ; flumaz nil cũng ngăn chặn các tác dụng trên thụ thể của
benzodiazépine do các chất chủ vận không benzodiaz pinique như zopiclone và
triazolopyridazine. Flumaz nil không được ghi nhận có gây tương tác với các thuốc khác có tác
dụng gây trầm cảm hệ thần kinh trung ương. Dược động học của các benzodiazépine không bị
biến đổi khi có mặt flumazénil.
TÁC DỤNG NGOẠI Ý
Khi sử dụng trong khoa gây mê, một số rất hiếm trường hợp gây nôn và (hoặc) ói. Đôi khi gây lo
âu, đánh trống ngực và sợ, nhất là sau khi tiêm nhanh Anexate. Thông thường, các tác dụng
ngoại ý này không cần thiết phải dùng đến một điều trị đặc biệt.
LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG
Anexate phải được dùng đường tĩnh mạch do một chuyên viên gây mê hoặc bác sĩ có kinh
nghiệm thao tác.
Anexate có thể được dùng bằng đường tiêm truyền bằng cách pha loãng trong glucose 5% hoặc
trong dung dịch NaCl 0,9%.
Các biện pháp hồi sức khác có thể được tiến hành song song.
n Trong khoa gây mê :
– nên dùng liều khởi đầu là 0,2 mg, tiêm tĩnh mạch chậm trong vòng 15 giây ;
– nếu mức độ ý thức mong muốn của bệnh nhân chưa đạt được trong vòng 60 giây, có thể tiêm
tiếp liều thứ hai (0,1 mg).
Trong trường hợp cần thiết, có thể thực hiện lại động tác này cách nhau 60 giây, liều tổng cộng
tối đa là 1 mg. Liều thông thường là 0,3-0,6 mg.
n Trong khoa săn sóc đặc biệt :
– liều khởi đầu tiêm tĩnh mạch là 0,3 mg ;
– nếu mức độ ý thức mong muốn của bệnh nhân chưa đạt được trong vòng 60 giây, có thể tiêm
tiếp Anexate cho đến khi bệnh nhân tỉnh dậy hoặc cho đến khi đạt đến liều tổng cộng tối đa là 2 mg
-Trường hợp ngủ li bì tái diễn lại, truyền tĩnh mạch với liều 0,1-0,4 mg/giờ tỏ ra có hiệu quả. Tốc
độ tiêm truyền phải được điều chỉnh theo từng bệnh nhân theo mức độ hồi tỉnh được ghi nhận.
Nếu tình trạng ý thức của bệnh nhân và chức năng hô hấp không cho thấy có sự cải thiện nào
đáng kể sau khi dùng lặp lại các liều Anexate, phải nghô đến nguyên nhân không phải là do
benzodiazépine.
QUÁ LIỀU

Ngay cả khi dùng đến liều 100 mg đường tĩnh mạch, vẫn không có dấu hiệu quá liều nào được
ghi nhận.

Nguồn dược thư quốc gia

Tham khảo hình ảnh các dòng thuốc ANEXATE thuốc gì? Công dụng và giá thuốc ANEXATE

    ANEXATE thuốc gì Công dụng và giá thuốc ANEXATE ANEXATE thuốc gì Công dụng và giá thuốc ANEXATE

Vui lòng đặt câu hỏi về bài viết ANEXATE thuốc gì? Công dụng và giá thuốc ANEXATE, chúng tôi sẽ trả lời nhanh chóng.

Nguồn uy tín: Tra Cứu Thuốc Tây không đưa ra các lời khuyên, chẩn đoán hay các phương pháp điều trị y khoa.


Có thể bạn quan tâm:

Đánh giá post
Tra Cứu Thuốc Tây

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *